Quay lại Dân trí
Dân Sinh

The Wall Street Journal: Giá dầu giảm gián tiếp làm Đông Á chuyển sang khí đốt, nhiều nhà sản xuất than bù lỗ nhờ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam

Khí đốt tự nhiên ở Đông Á lần đầu tiên có giá tương đương với than. Đây có thể xem là một cột mốc, có khả năng thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng theo kiểu Mỹ.

Ngay cả trước khi Covid-19 làm rung chuyển thị trường, chính quyền ở Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc đã có xu hướng chuyển sang sử dụng khí đốt tự nhiên. Kể từ tháng 2, đại dịch đã đẩy giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng xuống mức thấp kỷ lục, cho phép quá trình dịch chuyển diễn ra nhanh hơn.

Khí đốt tự nhiên luôn cạnh tranh với than đá ở Mỹ trong thập kỷ qua, được thúc đẩy bởi những khám phá mới về khí đá phiến. Điều đó cuối cùng đã khiến nhiều công ty khai thác than rơi vào tình trạng phá sản và tạo cơ hội cho các đối thủ khí đốt của họ. Hiện nay, các nền kinh tế lớn nhất của Đông Á cũng trải qua biến động tương tự.

Đài Loan có kế hoạch tạo ra một nửa năng lượng cho nền kinh tế từ khí đốt tự nhiên vào năm 2025 và giảm tỷ lệ điện than xuống còn 1/3. Năm 2017, tỷ lệ điện than ở Đài Loan là khoảng 50%. "Trước đây, chúng tôi lấy năng lượng từ than vì nó rẻ nhất, nhưng bây giờ tình hình đang thay đổi", Giáo sư Fran Tseng, Giám đốc bộ phận dầu khí của Taipower nói.

Tại Hàn Quốc, Chính phủ tháng trước đã tạm thời đóng cửa 28/60 nhà máy nhiệt điện than của đất nước. Các quan chức tại các công ty nhà nước và tư nhân vận hành các nhà máy điện cho biết, việc đóng cửa tiếp theo có thể diễn ra trong năm nay.

Và Trung Quốc trong vài năm tới sẽ vượt qua Nhật Bản trở thành nhà nhập khẩu khí đốt hóa lỏng (LNG) lớn nhất thế giớ.

Trước đó, ý tưởng cung cấp năng lượng cho các nền kinh tế lớn của Đông Á bằng khí đốt tự nhiên là không thực tế vì nguồn cung quá hạn chế và đắt đỏ. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan hầu như không có khí đốt tự nhiên, trong khi Trung Quốc có một số mỏ nhưng không nhiều như nguồn cung than trong nước.

Cách đây nửa thế kỷ, Nhật Bản đã trở thành quốc gia đầu tiên nhập khẩu khí đốt tự nhiên ở dạng lỏng, đòi hỏi phải đóng băng nhiên liệu và vận chuyển nó trên các tàu chở dầu từ Trung Đông, Đông Nam Á và gần đây nhất là Hoa Kỳ. Chi phí hóa lỏng và vận chuyển đắt đỏ làm cho khí đốt tự nhiên có giá cao hơn nhiều lần so với than.

Gần đây, các nhà sản xuất LNG mới đã mọc lên ở những nơi xa xôi như Louisiana và ngoài khơi Tây Bắc Australia. Nguồn cung dồi dào hơn, kết hợp với nhu cầu giảm gần đây vì Covid-19, đã khiến doanh thu của Japan Korea Marker giảm 64% kể từ tháng 10/2019.

Với mức giá khoảng 2,43 USD một triệu đơn vị nhiệt của Anh - một thước đo hàm lượng năng lượng của nhiên liệu - LNG đã giảm xuống thấp hơn mức giá 2,56 USD (giá cho một lượng điện than tương đương của Úc) vào gần cuối tháng 3/2020.

"Trước đây, giá thấp chưa chắc đã đẩy nhu cầu cao hơn, vì phần lớn khí đốt tự nhiên ở Đông Á được nhập khẩu thông qua các hợp đồng dài hạn gắn liền với giá dầu thô. Giờ đây, khi giá dầu đã chạm mức thấp nhất trong 18 năm, có lẽ chúng ta sẽ bắt đầu chuyển đổi từ than sang LNG vào mùa hè này", Chuyên gia phân tích Lucy Cullen của Wood Mackenzie cho biết.

Trung Quốc ráo riết theo đuổi việc chuyển đổi từ than sang khí đốt trong năm 2017 và 2018, một phần trong nỗ lực giảm ô nhiễm tại các thành phố lớn. Theo chia sẻ của BP PLC, tỷ lệ than trong cơ cấu năng lượng của Trung Quốc đã giảm xuống 58% trong năm 2018, so với 72% một thập kỷ trước đó.

"Năm ngoái, Trung Quốc đã từng sa đà vào điện than một lần nữa, phần vì lo ngại sự phụ thuộc quá mức vào năng lượng nhập khẩu, nhưng xu hướng gần đây có thể sẽ đẩy nhanh việc mua LNG của một số nhà nhập khẩu lớn", ông Zhu Chen, Giám đốc điều hành Sia Energy nói. "Một kế hoạch kinh tế 5 năm vào năm tới có thể làm rõ Chính phủ muốn đi nhanh như thế nào".

Đốt khí đốt tự nhiên cũng sẽ thải khí carbon dioxide vào khí quyển, nhưng lượng khí thải này nói chung chỉ bằng một nửa so với than đá và khí thải của các chất ô nhiễm không khí khác như lưu huỳnh và thủy ngân, và là không đáng kể đối với các quốc gia đang phải đối mặt với ô nhiễm kinh niên như Trung Quốc.

Năm 2017, Bộ Thương mại Hàn Quốc cho biết họ sẽ cấm các nhà máy điện than mới và dừng hoạt động các nhà máy cũ. Họ cũng đang chuyển đổi một phần sang LNG. Nước này đã tăng thuế nhập khẩu đối với than lên 28% trong khi cắt giảm 75% đối với LNG, theo Viện phân tích Tài chính và Kinh tế năng lượng.

Năm nay, nhập khẩu than của Hàn Quốc thấp hơn 20% so với mức của năm trước và nhập khẩu LNG tăng mạnh, theo phân tích của S & P Global Platts Analytics.

Tại Taipower của Đài Loan, lần đầu tiên năng lượng khí đốt đã vượt qua than vào năm ngoái. Công ty năng lượng CPC Corp, định giá khí dựa trên giá dầu thô, đã cắt giảm gần 25% lãi suất trong tháng này cho các nhà sản xuất điện so với một năm trước.

Khí đốt tự nhiên đã trở thành nhiên liệu hàng đầu tại Nhật Bản, chiếm hơn 40% sản lượng điện và có khả năng củng cố vị trí đó trong những năm tới, vì những lo ngại về môi trường khiến việc xây dựng các nhà máy than mới giảm và gần như không thể tăng cườngnăng lượng hạt nhân.

Giống như ở Mỹ, việc Đông Á chuyển sang sử dụng khí đốt tự nhiên có khả năng làm rung chuyển các nhà sản xuất năng lượng trên toàn cầu.

Glencore PLC, nhà điều hành 16 mỏ than ở Úc và là một trong những nhà sản xuất than lớn nhất thế giới, cho biết giá hàng hóa chung giảm, bao gồm cả than, gây ra việc giảm 26% thu nhập được điều chỉnh trước lãi suất, thuế, khấu hao vào năm 2019 .

Xuất khẩu than của Mỹ đã giảm 20% trong năm 2019, theo US Coal Exports, một liên minh được tài trợ bởi Hiệp hội Khai thác quốc gia. Rich Nolan, Giám đốc điều hành Hiệp hội cho biết, các nhà xuất khẩu than của Mỹ là nhà cung cấp lớn của thế giới và hiện tại có rất nhiều sự cạnh tranh.

"Một rủi ro đối với LNG là có thể có sự thay đổi đột ngột từ thắng thành thua trong một vài năm, nếu đầu tư vào sản xuất LNG mới cạn kiệt. Điều đó có thể làm cho giá cả biến động. Than là nhiên liệu đáng tin cậy, rẻ tiền và an toàn, tiếp tục củng cố an ninh năng lượng và công nghiệp hóa", ông Nolan nói.

The Wall Street Journal: Giá dầu giảm gián tiếp làm Đông Á chuyển sang khí đốt, nhiều nhà sản xuất than bù lỗ nhờ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam - Ảnh 1.

Nhà ga Vanino ở Nga được sử dụng để vận chuyển than cho khách hàng ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. ẢNH: YURI SMITYUK / TASS / ZUMA PRESS

Nhu cầu từ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam cũng có thể giúp các nhà sản xuất than bù lỗ ở những nơi khác. Một phát ngôn viên của Glencore đã trích dẫn một báo cáo tháng 12 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, cho biết trong khi than đá đang biến mất ở nhiều nền kinh tế tiên tiến, nó vẫn duy trì và thậm chí còn tiếp tục phát triển ở châu Á.

Một số công ty đang dịch chuyển để ổn định nguồn cung LNG trong dài hạn. Công ty Gas Saibu của Nhật Bản đang xem xét một dự án trị giá gần 300 triệu USD để cải tạo nhà ga khí đốt ở miền nam Nhật Bản thành một trung tâm trung chuyển có thể mang LNG Bắc Cực do PAO Novatek của Nga sản xuất cho người mua ở Trung Quốc và các nơi khác ở châu Á.

Takashi Kuwahara, Phát ngôn viên của Saibu cho biếtt: Với sự sụt giảm về giá giao ngay và giá hợp đồng, chúng tôi hy vọng điều này sẽ giúp thúc đẩy quá trình dịch chuyển của châu Á sang LNG cũng như tránh xa nhiên liệu dầu mỏ và than.