Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Bác Hồ với Tết cổ truyền dân tộc

Dịp Tết đến xuân về, trong không khí của mùa xuân, mỗi người dân Việt lại nhớ về hình ảnh người Cha già của dân tộc trong ngày Tết cổ truyền. Mặc dù bận rộn với công việc chung của đất nước nhưng Người vẫn luôn dành sự quan tâm đến mọi người, mọi nhà trong ngày Tết.

Xuân Tân Tỵ năm 1941, Bác Hồ mới đặt chân về nước sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước (1911 - 1941). Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly xách tay bằng mây, bên trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và tập tài liệu “Con đường giải phóng” tập hợp những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa kết thúc trước Tết mấy hôm.

Mùa Xuân năm ấy, từ hang Pác Bó đã ra đời một bài thơ Xuân tuyệt đẹp của Bác Hồ: “Non xa xa, nước xa xa/Nào phải thênh thang mới gọi là/Đây suối Lênin, kia núi Mác/ Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Hơn 4 năm sau, ngày 2/9/1945, đất nước đã được thu về một mối. Tết Bính Tuất năm 1946 là Tết độc lập đầu tiên. Chiều 30 Tết, tại Bắc Bộ phủ, nữ sĩ Ngân Giang tặng Người bức thêu bằng lụa đỏ, thêu bài thơ thất ngôn bát cú, nhan đề “Kính tặng các bậc Anh hùng dân tộc”. Người làm hai câu thơ tặng lại: “Gửi lời cảm tạ Ngân Giang/Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Tối 30 Tết, trong niềm vui đón xuân mới, Người đi chúc Tết gia đình ông Từ Lâm, chủ cửa hàng bán sách cũ ở Cửa Nam; một gia đình nghèo ở ngõ Hàng Đũa, nay là ngõ Lương Sử C; một gia đình buôn bán ở phố Phúc Kiến, nay là phố Lãn Ông; một gia đình công chức ở phố Hàng Lọng, nay là phố Lê Duẩn và thăm cố vấn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại).

Bac Ho 1

Đêm 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh cải trang đến thăm đền Ngọc Sơn, hòa trong niềm hân hoan của nhân dân Hà Nội đón khoảnh khắc Giao thừa thiêng liêng đất trời chuyển giao    từ năm cũ sang năm mới. Sáng Mùng 1 Tết Bính Tuất, vào lúc 7 giờ 30 phút, Người sang nơi làm việc. Trên đường đi, Người ghé thăm và chúc Tết Sở Liêm phóng Bắc Bộ, sau đó đến Nhà hát Lớn chúc Tết đồng bào và đọc lời Chúc mừng năm mới.

Ngày Mùng 2 Tết, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn đến thăm “Phiên chợ mười ngày” tổ chức tại chùa Láng (xã Yên Lăng, huyện Từ Liêm, nay là phường Láng Thượng, quận Đống Đa). Tại đây, Người nói về ý nghĩa của “Ngày Nam bộ kháng chiến”, biểu dương nhân dân Hà Nội đã tích cực hưởng ứng Lời kêu gọi của Chính phủ, sốt sắng tham gia phong trào ủng hộ đồng bào Nam bộ chống Pháp và chúc toàn thể nhân dân hưởng Tết Độc lập đầu tiên vui vẻ, hạnh phúc và tiết kiệm.

Tết Đinh Hợi năm 1947 là Tết của những quyết định lịch sử khi cách đó chưa lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19/12/1946) và Chính phủ ta tạm rút khỏi Thủ đô Hà Nội... Chập tối 21/1/1947 (30 Tết), Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp tất niên của Hội đồng Chính phủ ở thôn Sài Sơn, phủ Quốc Oai. Vì là cuộc họp cuối năm nên các thành viên Chính phủ đều có mặt đầy đủ và còn có các vị Trưởng ban, Ủy viên Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn và Phạm Bá Trực. Tại cuộc họp, Bác tóm tắt tình hình các mặt trận, nêu rõ thành tích của cuộc kháng chiến và thông báo việc Người đã thay mặt Chính phủ viết thư chúc Tết các đơn vị quyết tử quân bảo vệ Thủ đô và cũng đã có thư chúc Tết đồng bào, chiến sĩ Nam bộ.

Đêm khuya, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến chùa Trầm (huyện Chương Mỹ), đọc thơ chúc Tết đồng bào và chiến sĩ cả nước; khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta: “Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió/Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông/Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến/Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng/Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!/Sức ta đã mạnh, người ta đã đông/Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!/Thống nhất độc lập, nhất định thành công!”.

Sau đó, Người nói chuyện thân mật với anh chị em công tác tại Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đang đóng tại chùa Trầm. Trong giờ khắc thiêng liêng của đất trời, của lòng thành tâm, sư cụ thưa với Người: “Thưa Cụ Chủ tịch, chẳng mấy khi Cụ đến, nhân năm mới, xin Cụ mấy chữ để dán trước cửa chùa”. Bác vui lòng dùng bút lông và nghiên mực đã được mài sẵn, viết mấy chữ Hán trên giấy hồng điều thành đôi câu đối: “Kháng chiến tất thắng/Kiến quốc tất thành” và một dòng chữ nhỏ: Đinh Hợi nguyên đán bên trái câu đối. Mặc dù câu đối không đề tên người viết, nhưng trong câu đối đó, hai chữ Tất Thành đã nói lên tất cả niềm tin và hy vọng của Người vào sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc nhất định thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bac Ho 2

Tết Ất Mùi năm 1955 là Tết Nguyên đán đầu tiên ở Thủ đô Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi. Ngày 30 Tết, Báo Nhân Dân đăng bài “Chúc mừng năm mới” của Người: “Năm mới, với tinh thần và cố gắng mới, chúng ta quyết làm tròn nhiệm vụ để tranh lấy thắng lợi mới trong công cuộc hòa bình. Vậy có câu đối Tết nôm na là: “Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ - Tam dương khai thái/Đoàn kết, thi đua, tăng gia, tiết kiệm - Ngũ phúc lâm môn”. Sau đó, Người đi chúc Tết tại tỉnh Thái Nguyên.

Tết Nguyên đán Canh Tý năm 1960, Báo Nhân Dân đăng bài “Mừng Tết Nguyên đán” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu lên những việc đáng chê, đáng khen trong việc ăn Tết. Bài báo kết luận: “Trăm năm trong cõi người ta/Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan/Mừng Xuân, Xuân cả thế gian/Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”. Ngày 27/1/1960 (tức đêm Giao thừa), Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm, chúc Tết và tặng quà một số gia đình cán bộ, nhân dân Thủ đô Hà Nội. Trong đó có gia đình ông Trần Công Tốt, công nhân nhà máy đèn; Trương Từ Thức, công an chữa cháy; Bùi Xuân Bồng, gia đình công giáo; bác sĩ Đinh Văn Thắng, Giáo sư trường Đại học Y Dược; nhà công thương Bùi Hưng Gia.

Bac Ho 4

Tết Kỷ Dậu năm 1969 là Tết cuối cùng nhân dân cả nước và Thủ đô được đón Tết với Người. Ngày 30 Tết, Bác gửi tặng lẵng hoa cho một số cơ quan, đơn vị ở Hà Nội; trong đó có khối 30 khu phố Đống Đa, Phân đội 5 Đoàn công an vũ trang bảo vệ Thủ đô. Năm đó, mặc dù sức khỏe giảm sút nhiều, song Người vẫn đặt ra chương trình đi thăm và chúc Tết khá dài. Tuy nhiên, để bảo đảm sức khỏe của Bác, các đồng chí trong Bộ Chính trị đã bố trí để 6 giờ 30 phút sáng Mùng 1 Tết Nguyên đán, Người cùng các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ phòng không, không quân tại sân bay Bạch Mai - Hà Nội. Tại hội trường lớn, Người đã gặp gỡ, nói chuyện với đại biểu các anh hùng, chiến sĩ thi đua, đại biểu các đơn vị có thành tích trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

11 giờ ngày Mùng 1 Tết, Người đến thăm và chúc Tết nhân dân xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Người cùng nhân dân xã Vật Lại khai xuân trồng cây trên đồi của xã. Buổi trưa, dưới bóng cây trên đồi Vật Lại, Người thân mật nói chuyện và chúc Tết nhân dân địa phương. Người nói đại ý: Các cụ thì biết chuyện cũ, chuyện mới, nhưng các cháu ngày nay chỉ biết chế độ dân chủ cộng hòa. Đất nước bây giờ là của ta, cho nên cần phải thi đua sản xuất giỏi, trồng cây giỏi, để lại màu xanh muôn đời cho đất nước và con cháu các thế hệ mai sau…

Hơn nửa thế kỷ Bác đã đi xa, song đọc lại những bài viết, vần thơ của Bác mỗi dịp Tết đến xuân về, mỗi người dân Việt như được sống lại những năm tháng trong tình thân ái bao la của Bác. Như vẫn được Người ân cần dạy bảo những vấn đề to lớn quốc gia đến những công việc bình thường trong cuộc sống hàng ngày.