Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Bảo tồn, phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số

(Dân sinh) - Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm 54 thành phần dân tộc cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số (trên 13 triệu người chiếm 13,8% dân số trong cả nước). Ngôn ngữ của mỗi dân tộc là một thành tố cơ bản của văn hóa, đồng thời là phương tiện để hình thành và lưu truyền các hình thái quan trọng nhất trong đời sống văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc.

Theo đó, các dân tộc thiểu số có quy mô dân số không đồng đều (12 dân tộc dân số từ 100.000 người đến trên 1 triệu người, 21 dân tộc dân số từ 10.000 người đến 100.000 người, 15 dân tộc có dân số từ 1.000 đến 10.000 người, đặc biệt có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000 người: dân tộc Sila 840 người, Pu Péo 705 người, Brâu 313 người, Rơmăm 352 người, Ơđu 301 người).

Các dân tộc thiểu số của nước ta hầu hết đều có tiếng nói riêng, nhiều dân tộc có chữ viết riêng. Chữ viết với 2 dạng: Chữ viết cổ (gồm chữ Chăm, Khmer, Thái, Nôm Tày - Nùng, Dao, Mông, Hoa, Lào) và chữ viết Latinh (chữ Mông, Êđê, Jairai, Bana, Hrê, Rắclây…).

Bảo tồn, phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số - Ảnh 1.

Ảnh minh họa

Thượng tọa Trần Văn Tha - Ủy viên Thường trực Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng chia sẻ, đa số đồng bào Khmer ở Nam Bộ nói chung, Sóc Trăng nói riêng theo Phật giáo Nam Tông. Những năm qua, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng đã vận động 92 chùa Phật giáo Nam Tông trên địa bàn duy trì truyền thống mở lớp dạy chữ Khmer miễn phí cho tăng sinh và người dân. Các sư sãi, chức sắc, người có uy tín trực tiếp tham gia giảng dạy và vận động đồng bào tạo điều kiện thuận lợi cho con, em học chữ Khmer vào dịp hè. Kết quả hằng năm, có trên 200 tăng sinh, trên 7.700 sư sãi và con em phật tử học chữ Khmer trong dịp hè.

Ông Chảo Láo Sử ở thôn Phìn Hồ, xã Tả Phời, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, ai cũng kính trọng- người nặng lòng với chữ Nôm Dao của dân tộc cho biết, nhiều năm nay, cứ dịp Tết Nguyên đán, ông lại khai giảng lớp học chữ viết của dân tộc Dao bởi theo phong tục, học chữ đầu năm mới sẽ đem lại những điều tốt lành. Ngoài sự tận tâm của ông Sử, người thân trong gia đình ông cũng tham gia vào việc kèm cặp, hướng dẫn, góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy và học chữ dân tộc Dao cho trẻ em trong thôn.

Có thể nói đây là những việc làm có ý nghĩa của các cá nhân, các cộng đồng xã hội đang chung tay cùng các cấp, các ngành bảo tồn tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số, góp phần hạn chế xu hướng người dân tộc thiểu số không biết nói, biết viết, biết đọc tiếng của dân tộc mình.

Theo báo cáo của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các địa phương quan tâm bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc; tiến hành khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân tộc; biên soạn, xuất bản sách bằng tiếng dân tộc.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ, các đơn vị chuyên môn đã bổ sung các xuất bản phẩm song ngữ bằng tiếng dân tộc - tiếng phổ thông để tăng cường tủ sách cho các thư viện công cộng và các tủ sách văn hóa dân tộc ở cơ sở. Đến nay, đã có 51 thư viện cấp tỉnh, 541 thư viện cấp huyện, 2.191 thư viện cấp xã tại các địa phương có đồng bào dân tộc sinh sống có đầu sách song ngữ.

Nhiều thư viện đã nỗ lực số hóa tài liệu bằng tiếng dân tộc để lưu giữ lâu dài như: Thư viện tỉnh Yên Bái đã số hóa 100% tài liệu bằng tiếng dân tộc; Thư viện tỉnh Sơn La có trên 1.000 cuốn sách bằng tiếng Thái cổ, số hóa được 23.154 trang tài liệu bằng tiếng dân tộc; thư viện dân sinh ngoài công lập tại các chùa Khmer tổ chức phục vụ tài liệu bằng tiếng dân tộc cho đồng bào Khmer các tỉnh, thành phố phía Nam…

Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình dân tộc trên địa bàn đã có nhiều hình thức tổ chức các hoạt động, nội dung nhằm bảo tồn tiếng nói, chữ viết các DTTS như: Khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ; biên soạn, xuất bản sách bằng tiếng dân tộc; Lập hồ sơ khoa học về ngôn ngữ: "Chữ Nôm của người Dao", "Chữ Nôm của người Tày", "Chữ viết cổ của người Thái", "Nói lý, hát lý của người Cơ Tu" đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia...

Nhiều tỉnh, thành phố đã có những cách thức bảo tồn hiệu quả di sản tiếng nói, chữ viết. Tỉnh Khánh Hòa mở lớp học tiếng nói, chữ viết của dân tộc Raglai cho cán bộ, công chức, viên chức. Tỉnh Phú Thọ bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số thông qua truyền dạy các bài hát, làn điệu dân ca, trò chơi dân gian… Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đầu tư công trình nghiên cứu biên soạn bộ chữ viết tiếng Bhnong; huyện Nam Trà My sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn sách dạy và học tiếng dân tộc Cadong để đưa vào giảng dạy tại các trường học. Tỉnh Ninh Thuận nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn sách chữ Chăm, tiến hành giao nhận Thư tịch cổ Chăm và được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II Thành phố Hồ Chí Minh tu bổ, bồi nền, số hóa…

Những nỗ lực trong lĩnh vực văn hóa đã tạo điều kiện để tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số được sử dụng nhiều hơn, rộng rãi hơn trong đời sống xã hội, góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.