Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Tai nạn lao động giảm trong 6 tháng đầu năm 2020

(Dân sinh) - Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), tình hình tai nạn lao động (TNLĐ) 6 tháng đầu năm 2020 trong khu vực có quan hệ lao động và khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động giảm so với 6 tháng đầu năm 2019 cả về số người chết và số vụ TNLĐ chết người.

Tai nạn lao động giảm trong 6 tháng đầu năm 2020 - Ảnh 1.

Ông Hà Tất Thắng – Cục trưởng Cục An toàn Lao động thăm hỏi nạn nhân trong vụ TNLĐ tại công trình xây dựng nhà máy Công ty Cổ phần AV Healthcare - Khu công nghiệp Giang Điền, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai

Theo báo cáo của 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 6 tháng đầu năm 2020 trên toàn quốc đã xảy ra 3.349 vụ TNLĐ làm 3.450 người bị nạn. Trong đó: Khu vực có quan hệ lao động xảy ra 256 vụ TNLĐ chết người làm 274 người chết; Khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động xảy ra 104 vụ TNLĐ làm 104 người chết; Số người bị thương nặng là 806 người; Nạn nhân là lao động nữ là 1.151 người. Chi phí tiền thuốc, mai táng, tiền bồi thường cho gia đình người chết và những người bị thương... là 516 tỷ đồng; thiệt hại về tài sản là gần 518 tỷ đồng; tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao động là 49.438 ngày

Một số vụ TNLĐ nghiêm trọng phải kể đến là: Vụ TNLĐ sập tường ngày 5/3/2019 tại Công ty TNHH Bohsing (KCN Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) làm 7 người chết; Vụ TNLĐ xảy ra ngày 25/5/2020 tại dự án Thủy điện Plei Kần, xã Đăk Ang, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum làm 6 công nhân Công ty cổ phần Tấn Phát thương vong (3 người chết, 3 người bị thương); tại nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu Kiều Thi, thuộc Công ty TNHH MTV Kiều Thi Junma, xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 10/6/2020 làm 23 người thương vong (3 người chết, 20 người thương); và vụ TNLĐ đặc biệt nghiêm trọng phải nhắc đến là vụ tai nạn xảy ra ngày 14/5/2020 tại công trình xây dựng nhà máy của Công ty Cổ phần AV Healthcare - Khu công nghiệp Giang Điền, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai làm 24 công nhân của Công ty TNHH Hà Hải Nga thương vong (10 người chết, 14 người bị thương)…
Những địa phương có nhiều người chết vì TNLĐ trong khu vực có quan hệ lao động là: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Trong đó, các cơ quan chức năng đã xử lý trách nhiệm đối với một số vụ TNLĐ nghiêm trọng (làm chết từ 02 người trở lên và bị thương nhiều người) tại các địa phương: Hà Nội, Bến Tre, Hòa Bình, Đồng Nai, Phú Yên, Kon Tum, Điện Biên, Hải Dương, xảy ra trong các lĩnh vực xây dựng, khai thác khoáng sản, điện. Ngoài một số vụ TNLĐ nghiêm trọng đang trong quá trình điều tra, chưa có hình thức xử lý 6 tháng đầu năm 2020 có 05 vụ đề nghị khởi tố, 03 vụ đã có Quyết định khởi tố của cơ quan Cảnh sát điều tra.
Còn trong khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động, các vụ TNLĐ xảy ra chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, nông nghiệp, cơ khí, kinh doanh dịch vụ. Các địa phương có số người chết vì TNLĐ nhiều nhất là Hà Nội, Quảng Nam, Điện Biên, Lạng Sơn, Quảng Trị, Khánh Hòa, Bình Phước...
Các số liệu thống kê cơ bản cho thấy, tình hình TNLĐ 6 tháng đầu năm 2020 trong khu vực có quan hệ lao động và khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động giảm so với 6 tháng đầu năm 2019 cả về số người chết và số vụ TNLĐ chết người. Cụ thể: Số vụ TNLĐ chết người trong khu vực có quan hệ lao động giảm 09 vụ tương ứng với 3,4%. Còn trong khu vực người lao động làm việc không theo hợp động lao động, số vụ TNLĐ giảm 29 vụ tương ứng với 21,8%. Số người chết vì TNLĐ trong khu vực có quan hệ lao động giảm 10 người tương ứng với 3,5%; trong vực người lao động làm việc không theo hợp động lao động, số người chết vì TNLĐ giảm 37 người tương ứng với 26,2%.
Qua phân tích các vụ TNLĐ từ các biên bản điều tra TNLĐ trong khu vực có quan hệ lao động cho thấy: Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 37,43% số vụ tai nạn chết người và 38,49% số người chết; Loại hình công ty cổ phần chiếm 29,73% số vụ tai nạn chết người và 29,57% số người chết; Loại hình doanh nghiệp nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp chiếm 22,07% số vụ tai nạn chết người và 16,75% số người chết; Loại hình doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể chiếm 5,9% số vụ tai nạn và 5,83% số người chết.
Những lĩnh vực sản xuất kinh doanh xảy ra nhiều TNLĐ chết người là: Lĩnh vực xây dựng chiếm 23,24% tổng số vụ tai nạn và 28,71% tổng số người chết; Lĩnh vực dịch vụ chiếm 12,35% tổng số vụ và 13,64% tổng số người chết; Lĩnh vực khai thác mỏ, khai thác khoáng sản chiếm 10,08% tổng số vụ và 10,2% tổng số người chết; Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 9,22% tổng số vụ và 8,93% tổng số người chết; Lĩnh vực cơ khí, luyện kim chiếm 8,11% tổng số vụ và 8,26% tổng số người chết.
Các yếu tố chấn thương chủ yếu làm chết người nhiều nhất là: Ngã từ trên cao, rơi chiếm 23,81% tổng số vụ và 25,63% tổng số người chết; Tai nạn giao thông chiếm 19,25% tổng số vụ và 14,41% tổng số người chết; Đổ sập chiếm 15,71% tổng số vụ và 20,2% tổng số người chết; Máy, thiết bị cán, kẹp, cuốn chiếm 13,07% tổng số vụ và 12,17% tổng số người chết; Điện giật chiếm 12,7% tổng số vụ và 12,12% tổng số người chết.
Nguyên nhân của các vụ TNLĐ, do người sử dụng lao động chiếm 53,09% tổng số vụ và 57,35% tổng số người chết (người sử dụng lao động không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn chiếm 29,15% tổng số vụ và 32,8% tổng số người chết; Người sử dụng lao động không huấn luyện ATVSLĐ hoặc huấn luyện ATVSLĐ chưa đầy đủ cho người lao động chiếm 10,72% tổng số vụ và 10,09% tổng số người chết; Do tổ chức lao động và điều kiện lao động chiếm 8,84% tổng số vụ và 10,39% tổng số người chết...); Nguyên nhân người lao động vi phạm quy trình quy chuẩn an toàn lao động chiếm 15,69% tổng số số vụ và 14,96% tổng số người chết. Còn lại 31,22% tổng số vụ tai nạn lao động và 27,69% tổng số người chết, xảy ra do các nguyên nhân khác như: tai nạn giao thông, nguyên nhân TNLĐ do người khác, khách quan khó tránh.
Về tình hình điều tra TNLĐ và chất lượng báo cáo TNLĐ. Trong khu vực có quan hệ lao động, đa số các vụ TNLĐ đã được khai báo và điều tra đúng quy định. Tuy nhiên một số địa phương còn chậm gửi biên bản điều tra về Bộ LĐTBXH (số biên bản nhận được chỉ chiếm 21,5 % tổng số vụ TNLĐ chết người). Có 59/63 địa phương đã thực hiện việc báo cáo tình hình TNLĐ theo quy định. Một số địa phương báo cáo chậm là: Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Nam Định, Trà Vinh, Bạc Liêu. Một số địa phương chưa có báo cáo: Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, Cà Mau, Tây Ninh. Tỷ lệ báo cáo của các doanh nghiệp về Sở LĐTBXH còn thấp (Chỉ có khoảng 5,26% doanh nghiệp). Do vậy việc tổng hợp, đánh giá tình hình TNLĐ trên toàn quốc còn gặp nhiều khó khăn.
Đối với khu vực người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động, trong 6 tháng đầu năm 2020, một số địa phương đã thực hiện gửi biên bản điều tra TNLĐ đối với người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động như: Hà Nội, Quảng Ninh, An Giang. Tuy nhiên, công tác điều tra TNLĐ đối với khu vực này chưa được triển khai đầy đủ theo quy định của pháp luật. Việc lập biên bản ghi nhận TNLĐ đối với người làm việc không theo hợp đồng lao động của UBND cấp xã triển khai còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, đã có 55/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo thống kê TNLĐ đối với người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động. Trong đó có 32 địa phương báo cáo có xảy ra TNLĐ; 23 địa phương báo cáo không xảy ra TNLĐ; 08 địa phương chưa có báo cáo là: Yên Bái, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Gia Lai, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tây Ninh, Cà Mau.
Căn cứ vào tình hình và nguyên nhân xảy ra TNLĐ trong 6 tháng đầu năm 2020, để chủ động phòng ngừa và hạn chế TNLĐ trong thời gian tới, Bộ LĐTBXH đề nghị các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức, người sử dụng lao động, người lao động quan tâm triển khai thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:
Một là, các Bộ, ngành chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc ngành và lĩnh vực quản lý chủ động kiểm tra công tác ATVSLĐ; phối hợp với Bộ LĐTBXH thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có nhiều nguy cơ xảy ra TNLĐ, sự cố nghiêm trọng như: Xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, da giày, khai thác mỏ, khoáng sản đặc biệt là các công trình xây dựng trọng điểm, tiếp giáp với khu dân cư, đông người qua lại;
Hai là, Bộ Y tế tăng cường triển khai hướng dẫn và đôn đốc việc thống kê TNLĐ tại các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Sở Y tế theo khoản 4 Điều 36 Luật ATVSLĐ và Điều 25 Nghị định số 39/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 và gửi Bộ LĐTBXH tổng hợp theo đúng quy định;
Ba là, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương: Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định ATVSLĐ của các doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt các lĩnh vực có nhiều nguy cơ xảy ra TNLĐ, sự cố nghiêm trọng, chú ý đến hoạt động xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn tại doanh nghiệp; Thực hiện báo cáo TNLĐ theo Luật ATVSLĐ; Tăng cường tổ chức công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về ATVSLĐ phù hợp với từng lĩnh vực và ngành nghề, ưu tiên việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATVSLĐ cho người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động; Tăng cường tổ chức điều tra TNLĐ đối với người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động; Tăng cường triển khai công tác phòng ngừa TNLĐ, BNN với sự hỗ trợ từ quỹ bảo hiểm xã hội về TNLĐ, BNN, báo cáo về Bộ LĐTBXH. Bên cạnh đó, tổ chức hướng dẫn UBND cấp xã, cấp huyện trong việc thống kê, báo cáo TNLĐ đối với người làm việc không theo hợp đồng lao động; Lập biên bản ghi nhận TNLĐ đối với người làm việc không theo hợp đồng lao động; Chỉ đạo Sở LĐTBXH, cơ quan Công an cấp tỉnh phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh triển khai xây dựng quy chế phối hợp điều tra TNLĐ chết người và TNLĐ khác có dấu hiệu tội phạm.
Bốn là, các doanh nghiệp tăng cường triển khai công tác ATVSLĐ, chú trọng đến các hoạt động tự kiểm tra, chủ động kiểm soát phòng ngừa các yếu tố nguy hiểm có hại tại doanh nghiệp, phòng ngừa TNLĐ do ngã cao, điện giật, vật rơi, đổ sập; tổ chức huấn luyện ATVSLĐ cho người lao động;
Năm là, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tuyên truyền vận động người sử dụng lao động quan tâm, chú ý việc xây dựng nội quy, quy trình, biện pháp làm việc đảm bảo ATVSLĐ, cải thiện điều kiện lao động tại nơi làm việc; tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật ATVSLĐ cho các hội viên;
Sáu là, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và các hội nghề nghiệp tăng cường tuyên truyền, vận động người lao động, hội viên chấp hành tốt các nội quy, quy trình làm việc an toàn; sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân trong lao động nhằm hạn chế đến mức thấp nhất TNLĐ, đảm bảo an toàn, sức khoẻ và tính mạng cho người lao động./.