Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ y tế thôn bản

Tại Hội nghị nhằm vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn vừa được Bộ Y tế phối hợp với Ủy ban dân tộc và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tổ chức tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đã nhấn mạnh, đội ngũ cô đỡ thôn bản chính là cánh tay nối dài không thể thiếu của trạm y tế xã ở các vùng khó khăn, đặc biệt là trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.

Nguồn lực quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. ở miền núi, vùng sâu, vùng xa

Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, tỷ số tử vong ở người mẹ đã giảm mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam vẫn đang gặp những thách thức trong việc giảm chênh lệch đáng kể về tình trạng sức khỏe, tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc.

Tại hội nghị, ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc dẫn chứng số liệu điều tra thống kê thực trạng kinh tế-xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019 cho thấy, còn khoảng 12% phụ nữ mang thai không đến các cơ sở y tế khám thai lần thứ nhất; tỷ lệ này rất cao ở dân tộc La Hủ 54,7%, La ha 36,5%, Mảng 34,1%.

Đáng lưu ý, vẫn còn 13,6% phụ nữ dân tộc thiểu số không sinh con tại cơ sở y tế, 3,9% sinh con tại nhà có cán bộ chuyên môn đỡ, 9,5% sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ; một số dân tộc như Mảng, Mông, Cống và La Hủ có tỷ lệ sinh con tại nhà không có cán bộ chuyên môn đỡ rất cao, lần lượt là 50,6%, 38,8%, 37% và 36,5%.

Đáng buồn là tỷ suất chết trẻ em dân tộc thiểu số dưới 1 tuổi vẫn chiếm tỷ lệ cao (cá biệt dân tộc La Hủ: 6,6%, dân tộc Lự: 5,9%, dân tộc Si La: 5,1%...). Đặc biệt, vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn 16,5% trạm y tế chưa đạt chuẩn quốc gia; gần 1/5 trạm y tế chưa có bác sỹ, số nhân viên nữ hộ sinh chỉ chiếm 15,1%; 16,5% thôn chưa có nhân viên y tế thôn bản.

Hiện nay, việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, cô đỡ thôn, bản người dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn là một giải pháp tạm thời nhưng rất hiệu quả trong giai đoạn hiện nay, nhằm giúp gỡ bỏ những rào cản về địa lý, văn hóa và kinh tế khiến cho phụ nữ người dân tộc thiểu số không thể tiếp cận được tới các dịch vụ khám thai, đỡ đẻ an toàn và chăm sóc sau sinh.

Ông Y Thông nhấn mạnh, công sức của đội ngũ cô đỡ thôn bản đã giúp các thai phụ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế, hạn chế tai biến không đáng có, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong mẹ, trẻ em ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa.

Cô đỡ thôn bản góp phần quan trọng trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em miền núi, vùng sâu vùng xa.

Cô đỡ thôn bản góp phần quan trọng trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em miền núi, vùng sâu vùng xa.

Cần hỗ trợ đầy đủ cho việc đào tạo, triển khai, vận hành và duy trì đội ngũ cô đỡ thôn, bản.

Được hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước, đội ngũ cô đỡ thôn bản đóng góp không nhỏ trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt trong việc giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh. Cô đỡ thôn bản là những người sinh sống tại cộng đồng dân tộc thiểu số, sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để truyền đạt cho người dân thôn bản những thông tin quan trọng về chăm sóc sức khỏe đồng thời cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn ngay tại thôn bản.

Để trở thành cô đỡ thôn bản, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất là 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn, bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời.

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn cho biết, với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 cô đỡ thôn bản được đào tạo.

Vai trò của cô đỡ thôn bản đã được ngành y tế cũng như cộng đồng địa phương ghi nhận. Đội ngũ cô đỡ thôn bản chính là cánh tay nối dài không thể thiếu của trạm y tế xã ở các vùng khó khăn, đặc biệt là trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.

Tuy nhiên, theo ông Trần Văn Thuấn, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản, việc thực thi các chính sách còn có sự khác nhau giữa các địa phương, dẫn tới việc duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ gặp nhiều khó khăn, nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ thôn bản hoạt động.

Theo báo cáo của các địa phương, tính đến ngày 31/01/2023 đã có 1.528 cô đỡ thôn bản được đào tạo nhưng đã ngừng hoạt động do không có kinh phí. Hiện tại, số cô đỡ thôn bản được hưởng phụ cấp đã giảm xuống chỉ còn 911 người, trong đó có 732 người kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn bản.

Tại Hội nghị, bà Lesley Miller - Phó trưởng Đại diện tổ chức Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) nhấn mạnh sức khỏe và sự sống còn của bà mẹ luôn cần là ưu tiên hàng đầu, cấp bách trong Chương trình Chăm sóc sức khỏe và phát triển của Việt Nam. Để duy trì những tiến bộ vượt bậc mà Việt Nam đã đạt được trong những thập kỷ qua, cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để đảm bảo rằng tất cả các bà mẹ, bất kể dân tộc hay địa bàn sinh sống nào, đều được chăm sóc tốt trong thời kỳ mang thai và sinh đẻ. Các cô đỡ thôn, bản ở miền núi và vùng sâu, vùng xa là nguồn lực quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Việc duy trì và mở rộng đội ngũ cô đỡ thôn, bản có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả đạt được về sức khỏe bà mẹ, cứu sống các bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Vì vậy, bà Lesley Miller cho rằng để duy trì đội ngũ cô đỡ thôn, bản, chính quyền các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi các chính sách, chương trình liên quan, đặc biệt là ở tuyến tỉnh; xây dựng và cập nhật các Nghị quyết, kế hoạch hành động và văn bản hướng dẫn cấp quốc gia và cấp tỉnh để hỗ trợ đầy đủ cho việc đào tạo, triển khai, vận hành và duy trì đội ngũ cô đỡ thôn, bản.