Quay lại Dân trí
Dân Sinh

Văn hóa truyền thống của dân tộc Lô Lô tỉnh Hà Giang

(Dân sinh) - Dân tộc Lô Lô có các tên gọi khác là Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Ô Man, Lu Lộc Màn… cư trú chủ yếu ở tỉnh Hà Giang và tỉnh Cao Bằng (phía Bắc Việt Nam). Tuy là một trong những dân tộc có dân số ít nhất của nước ta. Mặc dù vậy giá trị văn hoá, tinh thần của người Lô Lô rất phong phú. Cho đến nay những giá trị truyền thống của dân tộc này vẫn được gìn giữ hầu như nguyên vẹn - Điều mà không phải dân tộc ít người nào cũng làm được.

Lô Lô là một trong những dân tộc có mặt sớm và có công khai khẩn mảnh đất Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Người Lô Lô ở Hà Giang có hai nhánh là Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Đồng bào Lô Lô Đen tập trung ở xã Lũng Cú, còn nhóm đồng bào Lô Lô Hoa đông hơn sống tại các xã Lũng Táo, Sủng Là, huyện Đồng Văn và huyện Mèo Vạc. Tuy có tên gọi khác nhưng đồng bào dân tộc Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa chỉ khác nhau về trang phục, còn tiếng nói, phong tục tập quán thì không có gì khác biệt.

Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Lô Lô tỉnh Hà Giang - Ảnh 1.

Đồng bào Lô Lô (Hà Giang) tham gia hoạt động tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Người Lô Lô ở khá tập trung, mỗi làng từ 20 đến 25 nóc nhà. Nhà cửa được sắp xếp theo một trật tự chung đó là dựa lưng vào núi, nhìn ra thung lũng nên tương đối thoáng mát. Nhìn từ ngoài vào có vẻ không khác mấy so với nhà của người Mông nhưng khi quan sát cách thức bố trí, sử dụng không gian trong nhà thì mới thấy sự khác biệt. Đối diện với với cửa chính là bàn thờ tổ tiên, đặt sát vách, được làm bằng những miếng gỗ hoặc mo tre vẽ mặt hình nhân, tượng trưng cho các thế hệ tổ tiên được thờ. Đây có lẽ cũng là nét độc đáo có riêng ở dân tộc này. Cũng giống như người Tày, Nùng kiến trúc nhà của người Lô Lô là nhà gỗ hoặc nhà đất có 3 gian và không có chái. Gian chính để thờ tổ tiên và tiếp khách, nhà được làm bằng gỗ dựa trên các kèo gỗ từ 3 đến 5 hàng chân, những vỉ kèo được liên kết với nhau bằng những đòn tay ngang dọc; gian giữa có nóc gọi là Xà Đốc, khi dựng Xà Đốc họ thường xem ngày lành tháng tốt để gia đình đầm ấm, làm ăn phát đạt.

Mỗi làng thường có chung một khu rừng thiêng, cấm kỵ chặt phá. Trong quan niệm của đồng bào thì đấy là nơi trú ngụ của thần linh nhưng trong thực tế đó cũng là nơi giữ nguồn nước cho cả xóm. Trong xóm Lô Lô, các cây cổ thụ cho bóng mát cũng được người dân ý thức giữ gìn, góp phần tạo nên cảnh quan riêng của cho những chòm xóm người Lô Lô.

Phụ nữ Lô Lô Đen mặc áo cổ vuông chui đầu có các mảng hoa văn hình chim vòng quanh thân áo. Tay áo rộng được ghép bằng nhiều vòng vải màu khác nhau. áo kết hợp với váy và mảnh vải hình chữ nhật dài chùm phía sau hông, xà cạp quấn chân. Khác với phụ nữ Lô Lô Đen, phụ nữ Lô Lô Hoa chủ yếu là mặc áo cánh, cổ tròn, xẻ ngực, quần ống què có trang trí hoa văn. Dù có điểm khác nhau nhưng bộ trang phục nữ giới của hai nhóm này đều rất đẹp, được làm rất công phu, trang trí các loại hoa văn như: Hoa văn hình học, hình quả thảo quả, hình chim “ngó bá”... thể hiện trình độ, khiếu thẩm mỹ tinh tế của đồng bào. Với sắc màu nóng đậm, bộ trang phục nữ Lô Lô được kết hợp với những đồ trang sức bằng bạc, nhôm có sắc trắng, sáng lấp lánh... cho thêm phần duyên dáng.

Nét văn hóa truyền thống của dân tộc Lô Lô tỉnh Hà Giang - Ảnh 2.

Đồng bào Lô Lô (Hà Giang) tham gia hoạt động tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Chữ viết của người Lô Lô là chữ tượng hình, nhưng hiện nay không dùng nữa. Lịch của người Lô Lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật. Người Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một làng. Đứng đầu dòng họ là Thầu chú (ông cậu) Ông ta phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ của dòng họ. Dù trước đây hay bây giờ thì người Lô Lô vẫn chung thủy và tôn trọng hôn nhân một vợ một chồng. Thanh niên nam, nữ Lô Lô được tự do tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Nếu như trong cưới xin, để phù hợp với nếp sống mới, nhiều nghi lễ đã bị loại bỏ dần thì trong tang ma của dân tộc này, các nghi lễ vẫn được tiến hành nghiêm ngặt theo đúng phong tục. Bố mẹ qua đời, phải ít nhất 1 năm con cái mới được dựng vợ gả chồng. Người ta cúng tổ tiên, ông bà vào các dịp như rằm tháng 7, tết năm mới. Chu kỳ đời người từ sinh nở, cưới xin, tang ma đều mang đậm dấu ấn văn hóa Lô Lô, có cái còn, có cái đã cải biến cho phù hợp với cuộc sống hôm nay.

Không chỉ tự hào là một trong những dân tộc có mặt sớm ở vùng đất này, tự hào về nền văn hóa trống đồng cổ, chữ viết tượng hình xa xưa... mà đồng bào còn tự hào về vốn văn hóa dân gian phong phú của mình qua những điệu múa, làn điệu dân ca, truyện cổ tích. Những bài ca, tiếng hát chứa chan tình yêu con người, cuộc sống, thiên nhiên... được ví như là viên ngọc quí đóng góp vào kho tàng văn học dân gian Việt Nam.